Trương Đăng Quế được biết đến là người đầu tiên ở Quảng Ngãi thi đỗ Hương tiến (học vị cao nhất vào thời của ông). Trong 43 năm làm quan, có 20 năm ông giữ trọng trách lớn (có hai lần nhận di chiếu tôn phò vua mới). Ngoài ra, ông còn là nhà thơ, nhà sử học, là thầy học của vua Thiệu Trị và một số quý tộc nổi tiếng khác. Để tìm hiểu về cuộc đời, sự nghiệp cũng như những cống hiến của Trương Đăng Quế cho đất nước mời bạn theo dõi bài viết sau đây của TopQuangNgai.
Sơ lược tiểu sử Trương Đăng Quế
Trương Đăng Quế sinh ngày 1 tháng 11 năm Quý Sửu (1793) tại làng Mỹ Khê, huyện Bình Sơn (nay thuộc xã Tịnh Khê, huyện Sơn Tịnh), tỉnh Quảng Ngãi.
Tiên tổ của ông là người huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Năm Lê Hy Tông thứ 10 (1622), tổ đời thứ sáu là Trương Đăng Trường vào Nam, làm quan đến Cai quản, tước Nham Lĩnh bá. Nhân thế, ông Trường làm nhà ở tại làng Mỹ Khê.
Trải qua bốn đời truyền nối làm quan, đến đời cha ông Quế là Trương Đăng Phác, làm Tri phủ cho triều Tây Sơn. Vợ ông Phác là bà Đỗ Thị Thiết, sinh hạ được 8 người con (4 trai, 4 gái), trong đó Trương Đăng Quế là người con thứ 5.
Cuộc đời và sự nghiệp của ông Trương Đăng Quế
Thuở nhỏ, Trương Đăng Quế có tiếng văn hay. Năm 1801, khi ông lên tám tuổi, thì cha mất. Tuy nhiên, nhờ chăm học, năm Gia Long thứ 18 (Kỷ Mão, 1819), ông đỗ Hương tiến (tức Cử nhân, đây là học vị cao nhất lúc bấy giờ). Theo sử Nguyễn thì ông chính là người “đầu tiên” ở Quảng Ngãi đạt được học vị này.
Dưới triều Gia Long, Minh Mạng
Ban đầu, ông được bổ làm Hành tẩu bộ Lễ dưới triều Gia Long. Năm Minh Mạng thứ nhất (1820), ông được thăng Biên tu. Tháng 5 (âm lịch) năm đó, nhà vua sai Thượng thư bộ Hộ Nguyễn Hữu Thận lựa người nào học hạnh thuần cẩn, sung làm Hoàng tử trực học để dạy các hoàng tử. Trương Đăng Quế, Doãn Văn Xuân và Ngô Hữu Vĩ liền được cử lên và được dùng.
Sau đó, ông lần lượt trải các chức: Thị độc sung Tán Thiện (1826), Thượng bảo thiếu khanh quản lý phòng văn thư (1828), Thị lang bộ Công sung làm việc ở Nội các (1830); lại đổi sang bộ Lễ sung chức khảo trong kỳ xét hạch giáo chức các tỉnh tại Quốc Tử Giám ở Huế (tháng 6 năm 1830).
Năm 1831, vua Minh Mạng sai ông đi Bắc Thành điểm ngạch sổ binh, khi về được nhắc lên Tham tri bộ Hộ kiêm quản Vũ khố, sung chức Độc quyển thi trong kỳ thi Đình. Tiếp theo, thăng ông lên làm Thượng thư bộ Binh, kiêm giữ ấn triện viện Đô sát, sung Cơ mật viện đại thần.
Năm 1833, Lê Văn Khôi khởi binh chống Nguyễn ở Gia Định. Là Thượng thư bộ Binh, Trương Đăng Quế lo trù tính phương cách đối phó. Đến tháng 7 năm 1835, cuộc nổi dậy này bị đánh dẹp, xét công, ông được thưởng hàm Thái tử thiếu bảo, sung Chủ khảo kỳ thi Hội.
Đầu năm 1836, nhà vua chọn ông làm Kinh lược đại thần đi kinh lý 6 tỉnh Nam Kỳ. Hoàn thành tốt công việc, ông được khen và được thăng Hiệp biện Đại học sĩ, sung Cơ mật viện, nhưng vẫn coi giữ bộ Binh.
Khoảng thời gian ấy có Quách Tất Công và Quách Tất Tại, sau khi bị đánh thua trong cuộc nổi dậy của Lê Duy Lương ở vùng Hòa Bình, lại tôn phò Lê Duy Hiển khởi binh chống Nguyễn ở Thanh Hóa. Quan quân đánh dẹp mãi không xong. Thấy vậy, Trương Đăng Quế bèn xin đi, được vua sung chức Kinh lược sứ tỉnh Thanh Hóa (cuối năm 1836). Thắng trận trở về, ông được gia thưởng Kỷ lục quân công (1837). Cũng trong năm này, ông được cử quản lý Khâm thiên giám.
Năm 1838, cho ông kiêm coi Quốc tử giám ở Huế, lại sung làm Chủ khảo kỳ thi Hội và Độc quyển kỳ thi Đình. Năm 1839, tấn phong ông là Tuy Thịnh nam, sau lại kiêm giữ ấn triện bộ Lễ.
Năm 1840, sung ông chức Tổng lý coi việc làm lăng của vua. Cũng trong năm này, ông nhận di chiếu của vua Minh Mạng tôn phò Nguyễn Phúc Miên Tông (tức vua Thiệu Trị) lên ngôi.
Dưới triều Thiệu Trị
Thiệu Trị năm đầu (1841), nhà vua chuẩn cho Trương Đăng Quế làm Văn Minh điện Đại học sĩ, gia hàm Thái bảo, quản lý bộ Binh, kiêm Cơ mật viện, kiêm sung chức Tổng tài ở Quốc sử quán.
Năm 1842, nhà vua đi tuần ra Bắc, sung ông làm Ngự tiền đại thần. Khi về, nhà vua tấn phong cho ông tước tử và thưởng một đồng kim tiền hạng nhất.
Năm 1844, vì có bệnh, Trương Đăng Quế xin phép nghỉ. Trong khoảng thời gian này, ông xin bổ dùng con cháu của Mạc Thiên Tứ, được vua nghe theo. Năm 1846, nhà vua gả con gái là An Mỹ công chúa cho con trai ông là Trương Đăng Trụ.
Năm 1847, vua Thiệu Trị tấn phong Trương Đăng Quế lên tước Tuy Thạnh bá, và cho khắc tên vào cỗ súng lớn có tên là “Bảo đại định công” (cỗ thứ nhất). Tháng 9 năm này, lại sung ông làm Phụ chính đại thần, nhận di chiếu tôn phò Nguyễn Phúc Hồng Nhậm (tức Tự Đức) lên kế vị.
Dưới triều Tự Đức
Sau khi lên ngôi, Tự Đức phong ông làm Cần chánh điện đại học sĩ, tấn phong tước Tuy Thạnh Quận công. Năm Tự Đức thứ 2 (1849), bắt đầu đặt viện Tập hiền, Trương Đăng Quế được cử làm Kinh diên giảng quan.
Tháng Giêng năm sau (1850), ông nhận mệnh đi duyệt binh. Kỳ đại kế năm ấy, ông được vua ban thưởng một kim khánh có khắc 4 chữ “Tam Triều Thạc Phụ”.
Năm 1853, nhà vua lại sung ông làm Chánh sứ Bắc Kỳ hà đê. Sau khi đi kinh lý miền Bắc trở về, đề xuất việc sửa sang đê điều, đều được nhà vua nghe theo. Sau đó, lấy cớ sức yếu, ông xin thôi việc, được vua chấp thuận và cho giữ nguyên phẩm hàm. Nhưng chỉ được ít lâu, thuận theo lời tâu của các quan đứng đầu sáu bộ, nhà vua lại triệu ông vào triều tiếp tục giữ bộ Binh. Năm 1855, Trương Đăng Quế xin về hưu, nhưng nhà vua không cho.
Tháng 7 (âm lịch) năm 1858, có 12 chiếc tàu Pháp đến bắn phá các bảo đài ở cửa Hàn (Đà Nẵng, lúc bấy giờ thuộc tỉnh Quảng Nam). Theo sử Nguyễn, buổi đầu ông cùng Phan Thanh Giản đều tâu là “chiến không bằng hòa”. Tuy nhiên theo ông Quế, thì trước khi hòa, “cần phải giữ vững đã”. Được vua cho là phải, sau đó ông nhận lệnh đi khắp Quảng Nam đôn đốc việc xây đắp đồn lũy để phòng thủ…
Sau khi bị ngăn cản ở Đà Nẵng, quân Pháp kéo vào Nam, đến tháng 2 năm 1859, thì thành Gia Định bị đối phương đánh hạ. Thấy quân xâm lược cứ lấn tới, mà mình thì đã già không thể làm tròn trọng trách, tháng 9 (âm lịch) năm 1860, Trương Đăng Quế xin về nghỉ. Trích lời tâu của ông:
Từ người Tây dương (chỉ quân Pháp) sang đây đã 3 năm nay, thần ê mặt với các quan trong triều, vì không thi thố được một kế nào để đuổi chúng lui, thì tội (của thần) tránh sao được…(Nay thần) lại bóng dâu gần ngã, tật bệnh liên miên, hầu như sắp chết, nghĩ thẹn vì cố giữ địa vị…
Lần này, nhà vua cho ông về nhà riêng dưỡng bệnh, 10 ngày hoặc 5 ngày mới phải vào chầu một lần.
Năm Tự Đức thứ 15 (1862), Trương Đăng Quế lại dâng sớ xin về nghỉ hưu. Theo lời bàn của đình thần, nhà vua cho ông thôi giữ bộ Binh, vì ở đó lúc này rất nhiều việc. Trương Đăng Quế lại dâng sớ xin giáng hàm Thượng thư và bỏ tước Quận công, vì để cho “bốn cõi nhiều loạn, là sự nhục của khanh đại phu, là không làm tròn chức vụ của thần”.
Vua không chuẩn cho. Trương Đăng Quế lại dâng sớ nói: Thần không có kế gì để đẩy lui được giặc, nay xin đem một nửa số lương bổng (của thần) lưu lại ở kho để giúp quân phí… Nhà vua phải gượng làm theo ý ấy. Sau, Trương Đăng Quế còn dâng sớ xin về hưu mấy lần nữa, vua Tự Đức mới thuận cho ông về nghỉ hẳn tại quê nhà vào tháng 3 (âm lịch) năm 1863. Mặc dù vậy, khi có việc hệ trọng, nhà vua cũng thường cử người đi hỏi ý kiến ông.
Có lần, được nhà vua hỏi về việc nước, ông gửi sớ tâu 5 điều, trong đó đáng chú ý là: “Đường lối trị nước, cần ở dùng người, nhất là quan lại cấp huyện; Muốn quan thanh liêm, không gì bằng bớt viên chức đi, mà tăng lương bổng; Của dùng thiếu, tùy theo trường hợp, có thể cho phạm nhân được nộp thóc hay vàng chuộc tội”,…Sớ tâu này được vua giao cho đình thần bàn bạc để thi hành.
Tháng 2 (âm lịch) năm Ất Sửu (1865), Trương Đăng Quế lâm bệnh nặng mất ở tuổi 72. Nghe tin, nhà vua cho nghỉ triều 3 ngày, truy tặng ông hàm Thái sư, ban tên thụy là Văn Lượng, cho khắc trên bia mộ dòng chữ: Lưỡng triều cố mệnh lương thần Trương Văn Lượng chi mộ (nghĩa là mộ của bề tôi giỏi chịu mệnh tiên đế phó thác qua hai triều là Trương Văn Lượng).
Năm Tự Đức thứ 28 (1875), nhà vua cho thờ ông trong Thế miếu tại Huế, theo lời dụ trước đây của vua Thiệu Trị.
Những công lao nổi bật mà thái sư Trương Đăng Quế đã đóng góp cho đất nước
Đóng góp cho văn học, sử học
Vốn có một kiến thức uyên bác, một tâm hồn nhạy cảm và yêu thơ nên đi đến đâu ông cũng để lại nhiều bài thơ. Sáng tác của Trương Đăng Quế khá nhiều, tiêu biểu là các tập:
- Quảng Khê văn tập (Tập văn Quảng Khê)
- Trương Quảng Khê thi văn (Thơ văn Trương Quảng Khê)
- Trương Quảng Khê tiên sinh tập tự (Tuyển tập của tiên sinh Trương Quảng Khê)
Khi làm Tổng tài ở sử quán, ông tham gia biên soạn các bộ sử và điển lệ:
- Đại Nam liệt truyện tiền biên (Truyện các nhân vật nước Đại Nam, phần tiền biên)
- Đại Nam thực lục tiền biên (Ghi chép xác thực sử nước Đại Nam, phần tiền biên)
- Đại Nam hội điển toát yếu (Tóm lược những điều cốt yếu của điển lệ nước Đại Nam)
- Nam Giao nhạc chương (Âm nhạc lễ Nam Giao),…
Ngoài ra, thơ văn của ông còn được chép trong các sách: Đại Nam anh nhã tiền biên (Lời hay ý nhã của nước Đại Nam, phần tiền biên), Quốc triều hàn quyển (Vườn văn của bản triều), Thi tấu hợp biên (Hợp biên các bài thơ và tấu), Thịnh thế giai văn tập (Tập văn hay đời thịnh), Thúy Sơn thi tập (Tập thơ về núi Thúy Sơn), Từ uyển xuân hoa (Hoa xuân vườn văn),v.v…
Lập địa bạ, đinh bạ Nam Kỳ năm 1836
Đầu năm 1836, vua Minh Mạng cho là sáu tỉnh Nam Kỳ, sau khi xảy ra sự biến thành Phiên An, việc binh đinh, điền thổ cần phải sửa sang nên chọn Trương Đăng Quế làm Kinh lược đại thần đi kinh lý Nam Kỳ, và ông đã đến Sài Gòn ngày 24 tháng 2 năm đó.
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu, thì chỉ trong 5 tháng, Trương Đăng Quế đã hoàn tất mọi việc, và thành công nhất là công tác duyệt tuyển và đạc điền.
Giúp trị an trong và ngoài nước
Năm Minh Mạng thứ 14 (1833), Lê Văn Khôi ở Gia Định, Nông Văn Vân ở Cao Bằng cùng khởi binh chống Nguyễn. Bấy giờ “Đăng Quế ngày đêm mưu tính, các việc được đúng khớp, đến sau việc yên. Quế được thưởng gia hàm Thái tử thiếu bảo”…
Năm 1836, khi nhận trọng trách đi kinh lược Nam Kỳ (1836), song song với việc lập đinh bạ và địa bạ cho mỗi thôn xã, Trương Đăng Quế còn xin và được chấp thuận việc đặt phủ lỵ, đồn bảo ở nơi trọng yếu để “bên trong làm phên che cho Gia Định được vững, bên ngoài làm cho tăng thêm thanh thế của Trấn Tây” (Chân Lạp).
Cuối năm 1836, thuận theo lời xin của Trương Đăng Quế, vua Minh Mạng sung ông làm Kinh lược sứ Thanh Hóa để tiễu trừ cuộc nổi dậy của Quách Tất Công và Quách Tất Tại. Đến nơi, ông cho quân đóng ở Lang Chánh rồi vừa chiêu an, vừa chia quân xây đánh.
Tháng 3 (âm lịch) năm sau (1837), quan binh bắt sống được Quách Tất Tại. Đến tháng 4 (âm lịch), lại bắt sống được hai nhân vật trọng yếu của quân nổi dậy là Lê Duy Hiển (minh chủ) và Hoàng Nguyệt Đồng (quân sư, dọc đường cắn lưỡi chết). Sang khoảng tháng 5 (âm lịch) thì Thanh Hóa được yên, sau khi các viên chỉ huy quân nổi dậy bị bắt hoặc bị diệt gần hết.
Để giữ yên tỉnh Thanh lâu dài, Trương Đăng Quế xin đắp một bảo lớn (gọi là bảo Ninh Lương), đắp đồn ở động Khương Chánh và ở Trịnh Vạn… Ngoài ra, ông còn xin chia động Trịnh Vạn ra làm 2 tổng (Trịnh Vạn và Quân Nhân). Đồng thời xin lấy tổng Như Lăng (thuộc huyện Nông Cống) và tổng Luận Khê (thuộc huyện Lôi Dương) làm thành châu Thường Xuân…Tất cả đều được vua y cho.
Là thầy giỏi, là viên quan tốt
Trương Đăng Quế là thầy học của vua Thiệu Trị và một số quý tộc nổi tiếng khác, trong đó có Tùng Thiện Vương và Tuy Lý Vương. Các công chúa như Nguyệt Đình, Huệ Phố, Mai Am…, dù không theo học, nhưng vẫn xưng là học trò ông. Đương thời, ông được đông đảo giới trí thức lúc bấy giờ kính trọng về học vấn sâu rộng và nhân cách khiêm nhường.
Như vậy, sau khi theo dõi bài viết, bạn đã có thể nắm vững cuộc đời cũng như sự nghiệp của Trương Đăng Quế. Hãy truy cập website hoặc fanpage của TopQuangNgai để cập nhật thông tin về các nhân vật nổi tiếng khác tại Quảng Ngãi bnaj nhé.
Nguồn: https://vi.wikipedia.org/
0 Comments